image banner
Những bổ sung, sửa đổi mới về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Quy định số 30-QĐ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XII
Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng không sửa đổi Điều lệ. Trên cơ sở Điều lệ Đảng và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quy chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; các nghị quyết, chỉ thị quy chế, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng;

Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng không sửa đổi Điều lệ. Trên cơ sở Điều lệ Đảng và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quy chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; các nghị quyết, chỉ thị quy chế, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng; Báo cáo tổng kết thực hiện Hướng dẫn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII, Điều lệ Đảng khoá XI ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương (gọi tắt là Hướng dẫn 46); ngày 26/7/2016 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 30-QĐ/TW thi hành Chương VII, Chương VIII, Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng (gọi tắt là Quy định 30). Trong đó, có bổ sung, sửa đổi nhiều vấn đề quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng để cụ thể hoá Điều lệ Đảng và phù hợp hơn với những vấn đề phát sinh trong thực tế; các cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra và đảng viên cần nắm vững các nội dung đó để thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.

Về nội dung, Quy định 30 bảo đảm thống nhất và đồng bộ với các văn bản khác của Đảng; cơ bản là kế thừa các nội dung của quy định trong nhiệm kỳ trước; chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung còn thiếu, chưa cụ thể, chưa rõ; những điểm mới phát sinh đã rõ, mang tính nguyên tắc và thủ tục, thẩm quyền hoặc cụ thể hoá thêm một số nội dung theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Quy định 30 gồm 3 nội dung lớn, cụ thể hoá 11 điều trong Điều lệ Đảng (từ điều 30 đến điều 40), trong đó chỉ bổ sung những vấn đề mới đã rõ và sửa đổi, bổ sung những vấn đề không còn phù hợp ở các Điều 30, 31, 32, 35, 36, 38, 39, 40. Những vấn đề cần nắm vững là những vấn đề mới; những vấn đề sửa đổi, bổ sung và những vấn đề đã có trong quy định từ trước nhưng nhiều tổ chức đảng, đảng viên vẫn còn hiểu khác nhau, cần có nhận thức thống nhất. Dưới đây là một số vấn đề cụ thể.

Về tên gọi của văn bản: Từ nhiệm kỳ Đại hội IX của Đảng đến nay, bên cạnh việc ban hành Quy định về thi hành Điều lệ Đảng, Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đều ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng của từng khoá.

Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất chung, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 Khoá XII đã quyết định đổi tên gọi “Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII, Điều lệ Đảng khoá XI” thành “Quy định thi hành Chương VII Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng”.

Về bố cục: Quy định 30 cơ bản giữ nguyên như bố cục của Hướng dẫn 46, lược bỏ một số nội dung không còn phù hợp; bổ sung phần căn cứ ban hành và phần III - Tổ chức thực hiện Quy định.

Về các nội dung cụ thể của Quy định 30, trong phạm vi công tác xây dựng Đảng ở chi bộ và tổ chức đảng ở cơ sở, tôi xin trao đổi một số vấn đề liên quan dưới đây.

Trước hết về chủ thể kiểm tra, giám sát: Quy định 30 đã bổ sung “ban thường vụ đảng uỷ cơ sở” là chủ thể kiểm tra, giám sát; Đồng thời đã bỏ “cơ quan ủy ban kiểm tra”. Như vậy, chủ thể kiểm tra, giám sát bao gồm: Chi bộ, đảng uỷ bộ phận, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ từ cấp cơ sở trở lên; uỷ ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp uỷ (gọi chung là các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ); ban cán sự đảng, đảng đoàn. Ban cán sự Đảng, đảng đoàn (có ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên) chỉ là chủ thể kiểm tra vì có chức năng lãnh đạo công tác kiểm tra; không có chức năng kiểm tra, giám sát. Ở cấp chi bộ (cả chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy bộ phận, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở) thì chủ thể kiểm tra, giám sát là chi bộ. Do vậy, khi ban hành quyết định kiểm tra, giám sát hoặc thi hành kỷ luật đảng viên trong chi bộ, đồng chí bí thư hoặc phó bí thư chi bộ (nếu chi bộ có phó bí thư) phải ký thay mặt chi bộ, không ký thay mặt chi ủy, vì chi ủy không phải là chủ thể kiểm tra, giám sát.

Về đối tượng kiểm tra, giám sát: Quy định 30 đã bổ sung “chi uỷ”, “ban thường vụ đảng uỷ cơ sở” là đối tượng kiểm tra, giám sát cho phù hợp với Quy định 263-QĐ/TW, ngày 08/10/2014 của Bộ Chính trị “về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm”. Như vậy, đối tượng kiểm tra, giám sát trong Quy định là: Chi uỷ, chi bộ, đảng uỷ bộ phận, ban thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng uỷ cơ sở; cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, thường trực cấp uỷ từ cấp trên cơ sở trở lên; uỷ ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ; ban cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên. Ở cấp chi bộ, chi ủy là đối tượng kiểm tra, giám sát; đồng thời  ở cấp đảng ủy cơ sở (xã, phường, thị trấn và tương đương), đã được bổ sung “ban thường vụ đảng uỷ cơ sở” là đối tượng kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên. Do đó, tổ chức đảng cấp trên, căn cứ tình hình, chương trình kiểm tra, giám sát có thể kiểm tra, giám sát “chi uỷ”của chi bộ, hoặc “ban thường vụ đảng uỷ cơ sở”của đảng ủy cơ sở. Đây là điểm mới, phù hợp với thực tiễn hiện nay, vì nhiều vụ việc vi phạm chỉ do “chi uỷ”, hoặc “ban thường vụ đảng uỷ cơ sở” gây ra; không phải do chi bộ, hoặc do đảng ủy cơ sở gây ra.

Về quy trình kiểm tra, giám sát, hiện nay, cơ bản vẫn thực hiện theo hướng dẫn trước đây của Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Khi có văn bản mới, chúng tôi sẽ đề cập sau.

Về việc thi hành kỷ luật trong Đảng: Bổ sung về “Thời hiệu xử lý kỷ luật  đảng viên vi phạm thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị” (tại Điểm 1.1, Khoản 1, Điều 35). Tới đây, Bộ Chính trị sẽ sửa đổi Quy định 181-QĐ/TW ngày 30/3/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) “về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”. Bổ sung việc xin lỗi và phục hồi quyền lợi của đảng viên bị kỷ luật oan: “Đảng viên bị kỷ luật oan phải được xin lỗi và phục hồi quyền lợi. Việc xin lỗi và phục hồi quyền lợi thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị” (tại Điểm 1.4, Khoản 1, Điều 35). Đây là điểm mới, bởi vì, tại Hướng dẫn 46 đã quy định “Cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp quyết định kỷ luật oan, sai đối với đảng viên phải thay đổi hoặc huỷ bỏ quyết định đó, đồng thời tự phê bình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm, nếu vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định”. Thẩm quyền thi hành kỷ luật của chi bộ và đảng ủy cơ sở không thay đổi.

Về nguyên tắc thi hành kỷ luật: Khi tổ chức đảng biểu quyết đề nghị hoặc quyết định kỷ luật tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm phải bằng phiếu kín. Khi “Trường hợp kết quả biểu quyết quyết định các hình thức kỷ luật cụ thể mà không có hình thức kỷ luật nào đủ đa số phiếu theo quy định, thì cộng dồn số phiếu từ hình thức kỷ luật cao nhất xuống đến hình thức kỷ luật liền kề thấp hơn, đến hình thức kỷ luật nào mà kết quả có đủ đa số phiếu theo quy định thì lấy hình thức kỷ luật đó để quyết định”. Điều lưu ý là, quy định này chỉ áp dụng cho việc biểu quyết quyết định hình thức kỷ luật, còn ở tổ chức đảng chỉ đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định thì không được cộng dồn phiếu. Cách tính số phiếu biểu quyết đồng ý “trên một nửa” hay “hai phần ba” số đảng viên chính thức hoặc thành viên của tổ chức đảng là được tính trên tổng số thành viên có quyền biểu quyết  của tố chức đảng (ở chi bộ là số đảng viên chính thức, trừ số đảng viên được miễn sinh hoạt không có mặt tại cuộc họp).

Có sự sửa đổi, bổ sung này là do tại Hướng dẫn 46 khoá XI đã quy định việc bỏ phiếu biểu quyết kỷ luật đảng phải tiến hành 2 lần; trong đó, lần 1 bỏ phiếu biểu quyết “có kỷ luật hay không kỷ luật”, trường hợp biểu quyết “có kỷ luật” thì bỏ phiếu lần 2 để biểu quyết quyết định hình thức kỷ luật cụ thể. Quá trình thực hiện, các tổ chức đảng cấp dưới cho là chưa phù hợp. Mặt khác, hiện nay các lỗi vi phạm đã được xác định rõ về hình thức kỷ luật theo Quy định 181-QĐ/TW. Vì vậy, chỉ quy định chung trong một mẫu phiếu biểu quyết kỷ luật như đã thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội X là phù hợp. Việc này, nhằm nâng cao trách nhiệm của tổ chức đảng cấp dưới trong việc xem xét, thi hành kỷ luật và khắc phục việc đùn đẩy lên cấp trên phải giải quyết.

Việc giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng được bổ sung, sửa đổi như sau: Tại Điểm 7.1: “Việc giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng được tiến hành từ đảng uỷ cơ sở, đảng uỷ cấp trên cơ sở, uỷ ban kiểm tra, ban thường vụ cấp uỷ hoặc cấp uỷ từ cấp huyện và tương đương trở lên.

Đảng viên là cấp uỷ viên các cấp, thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý, chi bộ đã quyết định xử lý kỷ luật theo thẩm quyền, nếu có khiếu nại thì do cấp uỷ cơ sở hoặc ban thường vụ cấp ủy quản lý đảng viên đó giải quyết khiếu nại kỷ luật lần đầu.

Sau khi được giải quyết, nếu đảng viên hoặc tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật không đồng ý, có khiếu nại tiếp thì tổ chức đảng cấp trên tiếp tục giải quyết”.

Như vậy, mặc dù chi bộ và ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng (của đảng viên) nhưng phải thực hiện các yêu cầu của tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng.

Một bổ sung mới về cấp giải quyết cuối cùng đối với việc giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng, tại điểm 7.2 quy định “Ban Bí thư là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với hình thức kỷ luật khai trừ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với các hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, cách chức do cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương trở xuống quyết định; còn đối với các hình thức kỷ luật do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị quyết định thì Ban Chấp hành Trung ương là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng.

Trên đây là một số điểm mới được bổ sung, sửa đổi trong quy định của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương quán triệt và triệt khai thực hiện. Chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi nhằm giúp các tổ chức đảng các cấp triển khai, quán triệt và thực hiện đúng các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng./.

Vũ Hữu Cần

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy


image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Tin tức sự kiện
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0